Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

Luật gia Lê Văn Nhân (phải), Hội Luật gia tỉnh tư vấn pháp luật về quyền định đoạt tài sản của vợ chồng cho người dân tại xã Phú Thạnh (H.Nhơn Trạch). Ảnh: Đ.PHÚ

Do đó, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung thì vợ chồng bình đẳng trong quyết định, định đoạt.

Quyền đối với tài sản chung và riêng

“Cha mẹ bên chồng có cho vợ chồng chúng tôi 700m2 đất. Vậy đất này có được xem là tài sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của chồng tôi. Tôi có quyền gì đối với tài sản này?” – bà Nguyễn Thị Liên (ngụ P.Tân Hạnh, TP.Biên Hòa) hỏi.

Về nội dung này, Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh Phan Văn Châu cho biết, tài sản tặng cho là tài sản chung của vợ chồng khi tài sản đó được tặng cho chung vợ chồng. Tài sản tặng cho là tài sản riêng của vợ hoặc chồng khi tài sản đó được tặng cho riêng vợ hoặc chồng dù là trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, một khi cha mẹ chồng cho vợ chồng bà diện tích đất trên theo đúng quy định và trình tự pháp luật thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng nên bà và chồng có quyền ngang nhau về tài sản này.

“Pháp luật chỉ cho phép vợ chồng bình đẳng nhau trong việc quyết định, định đoạt khối tài sản chung. Còn tài sản riêng của người nào thì người đó có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung” – Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh Phan Văn Châu lưu ý.

Cũng theo Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh Phan Văn Châu, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định, tài sản chung của vợ chồng bao gồm: tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Tài sản riêng của vợ, chồng gồm: tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng.

Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng

“Tôi ở nhà làm vườn, vợ tôi kinh doanh nông sản để cùng tôi nuôi con ăn học, chăm lo hạnh phúc gia đình, tạo lập kinh tế. Trong quá trình kinh doanh, ngoài số tiền 200 triệu đồng của vợ chồng tôi bỏ ra, vợ tôi còn vay mượn bên ngoài thêm 70 triệu đồng để làm ăn mà tôi không biết. Vậy tôi có phải cùng vợ chịu trách nhiệm trả số tiền này hay không?” – ông Trần Văn Trí (ngụ xã Nam Cát Tiên, H.Tân Phú) hỏi.

 Trao đổi về nội dung này, trợ giúp viên Đặng Bửu Trọng, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh (Sở Tư pháp) cho hay, theo Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây: nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cha mẹ phải bồi thường. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

Đồng thời, Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định rõ trách nhiệm liên đới của vợ, chồng như sau: vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1, Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của luật này. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của luật này.

Theo trợ giúp viên Đặng Bửu Trọng, vấn đề ông Trí thắc mắc có khả năng xảy ra 2 trường hợp. Trường hợp thứ nhất, nếu số tiền vợ ông mượn được dùng vào mục đích kinh doanh để chăm lo cho gia đình thì ông cũng có phần trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc cùng vợ trả khoản nợ này. Trường hợp thứ hai, vợ ông Trí vay mượn tiền, thiếu nợ người khác mà ông không hề hay biết, không đồng thuận; vợ của ông dùng số tiền vay sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân, không phải nhu cầu thiết yếu của gia đình (là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình) thì ông Trí không phải chịu trách nhiệm liên đới trả nợ.

“Tuy vậy, để không chịu trách nhiệm liên đới trả nợ, ông Trí phải chứng minh được 2 vấn đề: vợ của ông vay mượn tiền để chi tiêu cá nhân, không dùng để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Ông không hề hay biết, liên quan tới số tiền này” – trợ giúp viên Đặng Bửu Trọng lưu ý.

“Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ” – Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh PHAN VĂN CHÂU cho biết.

Theo baodongnai.com.vn